COMBAT HELMETS OF THE 20th CENTURY -
PHOTO BY:
MANNIE GENTILE.
Hát:
"Hỡi người chiến sĩ đã để lại cái nón sắt trên bờ lau sậy này. Bây giờ
anh ở đâu ? Bây giờ anh ở đâu ? Còn trên đời này, đang xông pha đèo cao
dốc thẳm, hay đã về bên kia phương Trời miên viễn chiêm bao. Trên đầu
anh, cái nón sắt ngày nào ấp ủ, mộng mơ của anh, mộng mơ của một con
người ..."
Từ giã
nếp sống thư sinh, tôi khoác lên người bộ quân phục màu ô liu, diện mái
tóc húi cua 3 phân, và có hai người bạn bất ly thân là EM (Carbin M 2
hay M 16) và cái nón sắt. Dây trang sức là sợi dây đeo thẻ bài, bất cứ
lúc nào cũng nằm quanh cần cổ. Trong những ngày đầu thụ huấn Giai Đoạn I
tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung - Hóc Môn, tôi luôn cảm thấy bức
rức khó chịu vì cứ phải đội "cái thứ mắc dịch, nặng chình chịch" ở
trên đầu, do ảnh hưởng của Kỷ Luật Thép trong Quân Đội. Không được tự ý
làm bất cứ những gì mình muốn và cả không được quyền giận dỗi. Lúc còn ở
nhà, thỉnh thoảng tôi áp dụng "chính sách tuyệt thực bất bạo động" theo
kiểu Thánh Gandhi con thì Bố Mẹ "teo" ngay. Nhưng trong Quân Trường
mà áp dụng chính sách này thì chắc chắn bị nhận thêm hình phạt cho đến
khi đói lả.
Chiếc nón
sắt bất cứ lúc nào cũng chễm chệ ở trên đầu (lúc đi, đứng), hoặc ở
cạnh đầu (lúc nằm gối lên trên), hay thay bàn viết (lúc kê giấy để viết
Tình Thư Của Lính), nhưng cũng có khi lại ở ngay dưới "bàn toạ" (lúc
kê để ngồi).
Chiếc nón sắt có hai lớp, lớp ngoài cùng - dĩ nhiên - được
chế tạo bằng sắt và lớp bên trong, được chế tạo bằng nhựa cứng, có gắn
kèm lớp vòm bằng dây vải dù, dẹt và có thể điều chỉnh vòng ôm cho vừa
khít đầu. Có đỡ được đạn hay không, thì trong Quân Trường, tôi
không được biết, nhưng đỡ được ... đòn. Có một lần, Đại Đội Khoá Sinh
của tôi được giao trực gác vành đai an ninh bên trong và cổng sau của
Trung Tâm Huấn Luyện. Thiếu Uý Đại Đội Phó bỏ đi tìm chỗ ngủ, giao cho
mình tôi gác. Mặc dù đang trong tư thế đứng, súng M 16 chống xuống đất,
tựa vào bắp đùi, tay phải vẫn giữ chặt nòng súng, thế mà tôi nhắm tít
hai "cửa sổ linh hồn" để thả hồn "theo gió cùng trăng". Bỗng giật mình
tỉnh ngủ vì tiếng quát của một vị Đại Uý, Cán Bộ Cơ Hữu. Ông đi nhậu về
khuya, tự động mở cổng, đẩy barrière, dắt xe vào mà không có ai hỏi
thăm, nên Ông "hỏi thăm sức khoẻ" của tôi. Sau màn trình diện cho đúng
với Lễ Nghi Quân Cách:
- "Khóa Sinh Dự Bị Sĩ
Quan Nguyễn Tự Thành, Số Quân ........., Danh Số .........,
thuộc Đại Đội Khoá Sinh ......., Tiểu Đoàn ............, Liên Đoàn B,
trình diện Đại Uý, chờ lệnh !".
Sau màn giảng mô
ran, trong giọng lè nhè của gã xỉn, Đại Uý móc lấy khẩu Colt của mình,
lấy báng súng gõ nhịp lên nón sắt của tôi - vẫn trong tư thế nghiêm -
như Thượng Toạ Thích Nhậu Xỉn gõ mõ !
Nói:
"Ôi, có khác chi mây Trời hiền hoà, khác chi bốn mùa êm trôi. Có tiếng
cười thuỷ tinh của vài đứa trẻ và hơi ấm vòng tay ôm của một người vợ
hiền, phải thế không anh ? Bây giờ, bây giờ trong cái nón sắt của anh để
lại bên bờ lau sậy này, chỉ có một con ễnh ương mượn vũng nước mưa đọng
trong đó, làm hồ trong cái nón sắt của anh. Bây giờ vẫn còn đủ Trời,
vẫn mây hiền hoà trôi, và bốn mùa vẫn về. Xuân muôn thuở dịu dàng, Đông
rét lạnh. Thu khi xám buồn, khi rực vàng nắng quái. Hạ cháy lửa nung
Trời ...".
Từ đó,
tôi lập tâm trả thù, cứ mỗi lần Đại Đội của tôi có dịp canh gác vòng đai
an ninh mặt sau, tôi thường đề nghị trao đổi với Đồng Đội để được gác
cổng. Ai cũng khoái và sẵn sàng nhường ngay, vì trực ở các chốt gác khác
mới có thể ngủ gục. Rồi tôi có cơ hội để trả thù, gặp đúng "cố nhân".
Thực hiện theo Quân Lệnh một cách nghiêm ngặt, yêu cầu "đối tượng" xưng
rõ họ tên, cấp bậc, đơn vị, rồi đi bộ tiến về hướng chốt gác, xuất trình
giấy tờ, lùi xa 3 bước. Từ lúc gặp "cố nhân", khẩu súng của tôi luôn
nằm ngang, họng súng hướng thẳng về phía trước, chỉ cần dùng ngón tay
cái gạt nhẹ khoá an toàn, ngón trỏ bấm vào cò súng, đạn sẽ bay ra khỏi
nòng. Đại Uý nhất nhất làm theo khẩu lệnh đanh thép của tôi, không nói
nửa lời. Sau khi Ông dẫn hẳn xe vào và đóng cổng, tôi đổi hẳn thái độ,
súng hạ xuống đất và đứng nghiêm. Mặc dù đã nghe tôi trình diện
nhưng Ông móc túi áo trái, lấy ra quyển sổ nhỏ, hỏi lại rõ ràng và ghi
tên tôi vào đấy. Đến lượt bụng của tôi "đánh lô tô" vì lo lắng. Nhưng
không, sáng hôm sau, tên của tôi được biểu dương trên loa phóng thanh,
và tôi được nhận tờ giấy "24 Giờ Phép" từ Tiểu Đoàn. Đại Uý tên Nho hay
Nhu.
Hát:
"Trong cái nón sắt của anh, Mặt Trời vẫn còn đó ban ngày và ban đêm,
Mặt Trăng hoặc muôn muôn triệu triệu vì sao vẫn còn đó. Tất cả vẫn còn
đó, vẫn còn đó ... Nhưng, anh bây giờ, anh ở đâu ? Con ễnh ương vẫn gọi
tên anh trong mưa dầm, tên anh nghe như tiếng thở dài của Lòng Đất Mẹ.
Dạo Tháng Ba, tên anh lẫn trong tiếng sấm đầu mùa mưa, nghe như tiếng
gầm phẫn nộ đến từ cuối Trời. Hỡi người chiến sĩ đã để lại cái nón sắt
bên bờ lau sậy này. Anh là ai, anh là ai, anh là ai ? ./."
CÁI NÓN SẮT - HOÀNG TRỌNG - DẠ CHUNG.
NHẠC PHẨM TRONG PHIM: NGƯỜI TÌNH KHÔNG CHÂN DUNG.
Hoàn
tất Giai Đoạn I tại Quân Trường Quang Trung, Khoá 6/73 SQTB của chúng
tôi được chuyển ra Quân Trường Đồng Đế - Nha Trang bằng xe GMC, để thụ
huấn Giai Đoạn II. Ngoài những tác dụng như đã vừa kể, chiếc nón sắt
không còn phát huy thêm tác dụng nào nữa.
Nhưng
cho đến khi tôi đã ra Đơn Vị Tác Chiến, mới thấy được hiệu quả trong vai
trò của "anh ấy" là che chở "hũ chao" của tôi. Du Kích VC ở 2 vùng mà
tôi đóng quân là Tiểu Khu Gò Công và Tiểu Khu Định Tường, rất đam mê
"trò chơi Thời Con Trẻ" là bắn ná thun. Quả lựu đạn được rút chốt an
toàn, quấn quanh bằng sợi dây lạt dừa, rồi bắn đi. Vằn ná được một người
giữ chặt, người khác ôm cứng người vừa nãy, còn một người nữa kéo thật
căng dây thun, cắt từ ruột xe hơi, và bắn đi. Khi lựu đạn phát nổ, bắn
tung miểng úp chụp xuống, và gõ lên nón sắt của tôi theo "nhịp điệu rất
vui tai". Trong những lần khác, "anh ấy" dùng phép "lăng ba vi bộ" hất
những viên đạn ra khỏi "hũ chao" của tôi. Nhưng nếu viên đạn được bắn
thẳng vào "anh ấy" theo một góc chín mươi độ, thì chắc chắn "anh ấy"
cũng "potoanthan chấm cơm", để mặc cho viên đạn quái ác khui "hũ chao"
của tôi rồi.
Chỉ trong
những lần xuất kích vào ban đêm, tìm và diệt, chúng tôi mới chịu rời
khỏi chiếc nón sắt của mình. Chứ đội nón sắt để cành cây mặc sức va đập,
như Quý Sư gõ "lóc cóc leng keng" lên chiếc khánh, thì chẳng khác nào
"lạy ông, tôi ở bụi này". Thay vào đó là những chiếc mũ vải rộng vành.
Chiếc
nón sắt còn được phát huy thêm tác dụng nữa là: làm gáo để múc nước
tắm, thau đựng đồ (đồ ăn, quần áo dơ, lung tung xèng), và cũng có
khi được dùng làm "vũ khí cận chiến" để đánh nhau với người của Đơn Vị
khác.
Nhưng
tôi yêu nhất những chiếc nón sắt ở điểm có thể thay cho những cái tô để
đựng cơm, canh cùng thức ăn mặn, khi Đơn Vị di hành từ điểm này sang
điểm khác, để đạt yếu tố thời gian cần thiết. Đỡ khổ khi Trời nắng,
nhưng khi Trời mưa, nước lõng bõng thay canh "đại dương", chúng tôi vẫn
phải nuốt và húp.
Chúng tôi tuyệt đối không dùng
nón sắt thay nồi để nấu thức ăn. Nhiệt lượng có thể làm biến đổi cấu
trúc kim loại và giảm sức chở che hộp sọ. Chẳng ai dám liều với sinh
mạng của chính mình vì những chuyện ngớ ngẩn. Nói đúng ra, vì chúng tôi
có cơ hội để sống chung với Người Dân, nên có thể mượn nồi mà nấu nướng.
Bây giờ mặc dù hình
ảnh của người lính trong bộ quân phục, đội nón sắt, trang bị Colt 45 và M
16, mang đôi giầy lội, vai khoác ba lô đã thực sự rời xa trong thực tế,
nhưng vẫn để lại trong tôi những kỷ niệm ngọt ngào và êm đềm mỗi khi
hồi tưởng. Nhớ Những Đồng Đội Xưa, có những người "đã để lại cái nón sắt
bên bờ lau sậy này".
PHOTO BY: LE KIM.
"THE OLD SOLDIERS NEVER DIED, THEY JUST FADED AWAY".
"THE OLD SOLDIERS NEVER DIED, THEY JUST FADED AWAY".
(MAC ARTHUR).
03/03/2012.
THOMAS THANH NGUYENTU.
BÀI LIÊN QUAN:
No comments:
Post a Comment