Tàu
kéo còi vài lần để chào từ giã Thanh Hóa, rồi lại xình xịch, xình xịch
lao nhanh trên đường ray, thẳng hướng Phương Bắc. Có những địa danh, tôi
chưa từng nghe qua và có những địa danh trở nên quen thuộc, vì trong số
những người mà tôi quen biết, là Người Bắc Di Cư, dù vào Nam lập nghiệp
đã lâu, luôn tự hào về Quê Hương Bản Quán, về Nghề Gia Truyền. Tàu tiếp
tục lộ trình đến Ninh Bình, rồi ghé Nam Định. Thành Phố Nam Định sở hữu
72 km bờ biển, nên những người quen của tôi có nguồn gốc nơi đây rất
rành nghề biển và nghề dệt - may. Nam Định còn là thành phố có ngành
công nghiệp về dệt may và công nghiệp cơ khí. Nên những tên huyện như Vụ
Bản, Ý Yên, Nam Trực ... đối với tôi chẳng còn lạ lẫm.Tàu hăm hở ngốn
nốt đoạn đường còn lại, ghé lại rồi đi qua: Phủ Lý - Hà Nam, Giáp Bát -
Hoàng Mai, rồi cuối cùng đến Ga Hàng Cỏ - Hà Nội. Địa danh này có tên là
Hàng Cỏ, vì vào Thời Pháp Thuộc, đã từng là nguồn cung cấp cỏ dồi dào
cho Thành Phố Hà Nội. Ga Hàng Cỏ được xây dựng và khánh thành năm 1902,
sau khi Cầu Long Biên và hệ thống đường sắt Việt Nam đã được thiết lập
xong.
Vừa mới lui cui đạp xe ra đến gần
cổng Nhà Ga, tôi bỗng nghe tiếng réo gọi tên của mình thật to. Giọng con
gái Hà Nội thật trong trẻo và ngọt ngào. Một cô bé mũm mĩm, tóc xõa
tung bay theo gió, hướng về tôi, vẫy tay rối rít. Rất cẩn thận, kẻo "bé
cái lầm", tôi chỉ tay vào ngực mình, nhướng đầu ra ý hỏi. Cô bé gật đầu
lia lịa. Tôi đạp xe đến gần, cô ấy chụp lấy cánh tay tôi một cách thân
tình, liền đặt ngay một tràng câu hỏi:
- "Thế nào, anh có khỏe không ? Ngồi tàu lâu, anh có mệt không ? Anh đã ăn gì chưa ? ... "
Tôi
dắt bộ và đi đi song song với cô ấy ra bên ngoài cổng. Chú em tôi đang
ngồi trên một chiếc gắn máy chờ. Lúc ấy, tôi mới biết cô ấy là em họ của
mình.
Chúng tôi về đến nhà ở Khu Tập Thể (Chung
Cư ở trong Nam), một mâm cơm thịnh soạn đang chờ sẵn, có cả bia chai Hà
Nội. Tôi khoanh tay cúi đầu chào Cậu Mợ cho phải phép. Cậu mắng yêu:
-
"Sao ngố thế hả con ? Con cứ ra đây trước với Mẹ và em cho khỏi vất vả.
Đằng nào tàu cũng ra tận đây cơ mà. Lúc đấy, con ra nhận xe cũng đâu có
muộn. Có giấy biên nhận, họ mới giao xe chứ, phải không nào ?"
Tôi đành cười trừ và đưa tay lên gãi đầu:
- "Hihihi ... Vâng ạ. Con ngố rừng thật ạ".
Cậu là em trai út của Mẹ tôi và anh của Dì Út. Bậc Trên của Mẹ là 3 Bác, đã tử trận trong Cuộc Chiến.
(Trong
cách xưng hô trong gia đình, Miền Bắc có cách gọi hoàn toàn khác biệt
với Miền Nam, theo quan niệm của riêng tôi, cả 2 Miền đều có thói quen
"xài sang". Đã là anh thì phải là con trai, cần gì gọi là "anh trai"; đã
là chị, chắc chắn là con gái "chăm phần chăm", đâu cần phải gọi là "chị
gái". Thí dụ trên tôi có 2 anh và 2 chị: VIỆT NAM HÒA BÌNH. Khi tôi gọi
anh Việt, có nghĩa là tôi chẳng đề cập đến anh Nam, cũng thế, khi tôi
nói chị Bình thì tôi có ám chỉ đến chị Hòa đâu mà bảo là nhầm ? Với quan
niệm như vậy, khi tôi nghe một ai nói "anh trai, chị gái" thì tôi liên
tưởng đến người này có 2 anh: 1 trai và 1 "gay", có 2 chị: 1 gái và 1
"lesbian", nghĩa là loại giống (sex) ở giữa đực và cái, loại "xăng pha
nhớt". Tôi có anh chị họ: THỊNH VƯỢNG, tôi có cần thiết phải gọi "Anh họ
Thịnh ơi, chị họ Vượng ơi" không ? Không cần, mà chỉ gọi đơn giản anh
Thịnh chị Vượng là đủ. Anh của Bố hay của Mẹ đều được tôi gọi là Bác. Vợ
hay chồng của Bác trai, Bác gái cũng là Bác luôn. Trong khi người Miền
Nam gọi anh của Mẹ là Cậu, để khi đánh thằng cháu rồi, nó dễ xuống giọng
gọi là "cẩu" (chó). Chị của Bố cũng được gọi là Bác, của Mẹ được gọi là
Bá. Em trai của Bố là Chú, vợ cưng của Chú là Thím. Em gái của Bố là
Cô, chồng yêu của Cô là Chú. Em trai của Mẹ là Cậu, vợ cưng của Cậu là
Mợ. Em gái của Mẹ là Dì, chồng yêu của Dì là Chú (Miền Nam gọi là Dượng.
Tôi nghĩ, chữ "dượng" được dùng để chỉ chồng kế của Mẹ thì hay hơn.)
Người Miền Nam quen gọi theo thứ, Mẹ là thứ năm, gọi Cậu Hai, Cậu Tám,
Dì Ba, Dì Bảy để dễ dàng phân biệt người được đề cập đến là bậc trên hay
bề dưới của Mẹ. Một Ba Má chỉ sanh 2 người con, nhưng gọi là thằng Hai,
con Ba. Theo tôi, là do người Miền Nam kỵ húy. Xưa kia, Đức Quang Trung
Hoàng Đế uýnh Gia Long chạy te vô Nam. Dân Chúng quen kiêu Gia Long là
Thầy Cả. Nên từ đó, con cả (con đầu lòng) chỉ dám kiêu là hai. Vào Thời
Trịnh Nguyễn Phân Tranh, Chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 - 1725) biệt phái
Tướng Quân Nguyễn Hữu Cảnh trong sự nghiệp mở mang bờ cõi về Phương Nam.
Tướng Quân được thăng chức vụ cao nhất trong quân vụ là Thống Suất và
khi Ngài mất tại Sầm Giang, Rạch Gầm, Mỹ Tho, được phong tặng là Hiệp
Tán Công Thần. Từ đó, tên húy của Tướng Quân trở thành tên kỵ của Người
Miền Nam. Còn một lẽ nữa là con trai của Gia Long tên là Cảnh. Nên chậu
cảnh được gọi là chậu kiểng, bến đò Tân Cảnh được gọi trại là Tân
Kiểng.)
Cậu
của tôi sau khi học xong Lớp 10 (Hệ Thống Giáo Dục trong Nam là 12
năm), sau đó hoàn tất 4 năm ở Đại Học Bách Khoa, ngành Cơ Khí, nhưng
trước khi nhận Văn Bằng Kỹ Sư Cơ Khí, phải thi hành Nghĩa Vụ Quân Sự
(Nghĩa Vụ Quân Dịch ở trong Nam) với cấp bậc "đơ dèm cà cuống" (binh
nhì). Điều này thật khác với Miền Nam, chúng tôi bị chi phối bởi Luật
Tổng Động Viên năm 1972, nếu học Khóa Sĩ Quan Trừ Bị, các luật sư, kỹ
sư, kiến trúc sư được mang cấp bậc Chuẩn Úy, thụ huấn Khóa Sĩ Quan Hiện
Dịch được mang cấp bậc Thiếu Úy. Riêng các dược sĩ và bác sĩ, sau khi
thụ huấn Khóa Căn Bản Quân Sự, được rút về Quân Y phục vụ, mang lon
Trung Úy. Như vậy Chính Quyền Miền Bắc "xài sang" trong Việc Dùng Người.
Một người chẳng cần học gì cả cũng mang quân hàm như một người có học,
chẳng may bị hy sinh trong Chiến Tranh, hai người này ngang nhau, trong
khi người có học phải mất biết bao nhiêu công sức và tiền của để mà học.
Đến khi được "phục viên" (giải ngũ), Cậu của tôi mang cấp bậc Trung Úy
và được ưu tiên chọn nhiệm sở tại Hà Nội, và làm Kỹ Sư Cơ Khí tại một Xí
Nghiệp Dược Phẩm. Những ngày còn ở Quê Nhà, tôi đã được Cậu chăm sóc,
ẵm bồng những khi Mẹ của tôi bận việc gì đó. Bố của tôi vào Nam để thụ
huấn Khóa 4/53 SQTB tại Trường Võ Bị Thủ Đức. Nhà nghèo nên Cậu Mợ tôi
ước mong các con của mình sau này được giàu có, nên đặt tên con rất
"kêu": Lam Ngọc, Hồng Ngọc và con trai út là Kim Cương. Cô bé ra đón tôi
là Lam Ngọc, là Giáo Sư Trung Học Đệ Nhị Cấp (ngoài Bắc gọi là Giáo
Viên Cấp 3). Chồng là Công Nhân Nhà Máy Bia. Sau giờ tan ca, chàng xách
về một bao hèm; sau giờ dạy, nàng chăn nuôi heo. (Dân Miền Nam thua Dân
Miền Bắc ở điểm tăng gia sản xuất. Hay tại Thầy Cô của Miền Nam có điều
kiện sống sung túc hơn ? Quý Thầy Cô của tôi thường hội họp nhau vào
cuối tuần để ăn nhậu, khiêu vũ và đánh xì phé, hay đánh chắn, xoa mạt chược, tổ tôm, xóc đĩa - các hình thức khác như đánh bài của người Miền Bắc.)
Gần
như một thông lệ, địa điểm viếng thăm đầu tiên của Dân Miền Nam ra Đất
Bắc là "con từ Miền Nam ra thăm Lăng Cụ" (gọi bằng Bác là hỗn !). Lăng
Hồ Chủ Tịch tọa lạc tại Quảng Trường Ba Đình, nơi mà Cụ đã từng chủ tọa
các cuộc hội nghị lớn. Lăng gồm 3 lớp, chiều cao của Lăng là 21,6 m. Lớp
dưới tạo hình bậc thềm tam cấp. Lớp giữa là khu trung tâm, nơi quàn
quan tài bằng kính, bên trong có đặt thi hài của Cụ và những hành lang,
những cầu thang. Lớp ngoài cùng là mái Lăng hình tam cấp. Vách được gắn
đá hoa cương, đá cẩm thạch và hồng ngọc. 3 Mẹ con tôi cùng Cậu Mợ và em
gái xếp theo hàng rồng rắn, lần lượt tiến chậm vào bên trong Lăng, đi
vòng quanh chiếc quan tài bằng kính một lượt. Lăng được các chú vệ binh
trong bộ đồng phục màu trắng bảo vệ ngày đêm. 2 bên Lăng là 2 rặng tre,
biểu tượng của Việt Nam và phía sau là vườn cây ăn trái như cam Bố Hạ
... Chúng tôi cũng đi viếng căn nhà sàn bằng gỗ, nơi làm việc của Cụ.
Cạnh đó là một ao cá hồng, cá diêu bông được gọi cho ăn bằng hiệu lệnh
tiếng kẻng.
Tôi kính trọng Cụ là Vị
Nguyên Thủ của một Quốc Gia, là một Bậc Vĩ Nhân. Chẳng lẽ tôi đi viếng
Cụ cả triệu lần thì được Nhà Cầm Quyền cấp giấy chứng nhận là đảng viên ư
? Tôi cũng yêu Tổ Quốc Việt Nam nhưng theo một cách khác với họ.
CHÙA MỘT CỘT.
Hà Nội là Thủ Đô, đồng thời là thành phố đứng đầu Việt
Nam về diện tích tự nhiên và đứng thứ hai về diện tích đô thị sau Thành
Phố Sài Gòn. Hà Nội cũng đứng thứ hai về dân số. Toạ lạc giữa Đồng Bằng
Châu Thổ Sông Hồng, bên hữu ngạn trù phú. Phía Bắc giáp với Thái Nguyên,
Vĩnh Phúc. Phía Nam giáp với Hà Nam, Hoà Bình. Phía Đông giáp với Bắc
Giang, Bắc Ninh, Hưng Yên. Phía Tây giáp với Hoà Bình, Phú Thọ. Nhờ Vị
Trí Địa Lý bằng phẳng và rộng rãi như thế nên nơi đây đã sớm trở thành
một trung tâm chính trị và tôn giáo ngay từ những buổi đầu của Lịch Sử
Việt Nam. Năm 1010, Vua Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) quyết định xây dựng
kinh đô mới ở vùng đất này với tên gọi Thăng Long. Trong suốt thời kỳ
của các Triều Đại Lý, Trần, Lê, Mạc, Kinh Thành Thăng Long là nơi buôn
bán, trung tâm văn hóa, giáo dục của cả Miền Bắc. Khi Đức Quang Trung
Hoàng Đế lên ngôi, Kinh Đô được chuyển về Huế. Rồi Nhà Nguyễn lên nắm quyền trị vì,
Thăng Long bắt đầu mang tên Hà Nội từ năm 1831, dưới thời Vua Minh
Mạng. Năm 1902, Hà Nội trở thành Thủ Đô của Liên Bang Đông Dương và được
Người Pháp xây dựng, quy hoạch lại. Trải qua hai cuộc chiến tranh, Hà
Nội là Thủ Đô của Miền Bắc, rồi Nước Việt Nam được thống nhất và giữ vai
trò này cho tới ngày nay. Cùng với Thành Phố Sài Gòn, Hà Nội là một
trong hai trung tâm kinh tế của cả Quốc Gia. Cũng là nơi tập trung Các
Trường Đại Học.
ĐỀN NGỌC SƠN - CẦU THÊ HÚC.
Đặc
điểm nổi tiếng nhất của Khu Phố Cổ là họp theo từng ngành nghề. Thợ thủ
công từ các làng nghề quanh Thăng Long xưa tụ tập về đây, quy tụ theo
từng khu vực chuyên làm nghề của mình. Các thuyền buôn có thể vào giữa
phố để buôn bán trao đổi, khiến các phố nghề càng phát triển. Và chính
sản phẩm được buôn bán trở nên tên phố, với chữ "Hàng" đằng trước, mỗi
phố chuyên môn buôn bán một loại mặt hàng.
Hiện
nay, một số phố vẫn còn giữ được các loại sản phẩm truyền thống như phố
Hàng Mã, Hàng Tre, Hàng Thiếc, Thuốc Bắc ... Ngoài ra một số phố, tuy
không còn giữ nghề truyền thống, nhưng cũng tập trung chuyên bán một
loại hàng hóa như phố Hàng Quạt bán quạt, đồ thờ; phố Hàng Buồm bán bánh
kẹo, phố Mã Mây chuyên về dịch vụ du lịch ...
- Hàng Bông lấy theo tên đoạn phố chính Hàng Bông Đệm vốn có nhiều nhà làm nghề bật bông, bán mền bông, chăn đệm.
- Phố Hàng Mã - ngày xưa, tại nơi đây chuyên buôn bán đồ vàng mã dùng trong việc thờ cúng, bao gồm vàng và Đô La Âm Phủ, sau mở rộng thêm các tượng giấy hình các quan, hình nhà cửa ... để cúng và đốt cho người Cõi Âm. Ngày nay, Phố Hàng Mã chỉ nhộn nhịp vào các dịp Lễ, Tết Trung Thu, Nguyên Đán với các mặt hàng về đồ chơi. Ngoài ra, tại đây cũng là nơi bán đồ trang trí phông màn cho đám cưới với các hình cắt làm từ nguyên liệu giấy màu hay bọt xốp nhiều màu sắc.
- Phố Mã Mây. Phố này nguyên bao gồm hai phố xưa: Phố Hàng Mã và Phố Hàng Mây. Đoạn phố trên bờ sông Nhị, bến đậu các loại thuyền bè từ vùng núi, chở theo các mặt hàng lâm sản như song, mây, tre, nứa ...
- Phố Hàng Bạc do được Nhà Vua cho phép mở lò đúc bạc thành nén cho Triều Đình.
- Phố Hàng Đào là nơi buôn bán các mặt hàng tơ, lụa, vải vóc (chữ vải điều chỉ màu đỏ được đọc chệch thành chữ đào).
- Phố Hàng Lược buôn bán các loại lược: gỗ, sừng và nhựa.
- Phố Hàng Cót, bán cót (cây tre được tách ra từng miếng nhỏ, giát mỏng, phơi khô, xong được lồng ghép vào với nhau, thành từng tấm to).
- Phố Chả Cá (cá được băm nhuyễn, vo viên, rồi chiên / rán).
- Phố Hàng Chai, bán chai lọ.
- Phố Hàng Rươi, bán con rươi (một loại hải sản).
- Phố Hàng Gà bán các loại gia cầm: gà, vịt, ngan, ngỗng, bồ câu, gà tây, ...
- Phố Hàng Điếu, bán ống vố (pipe), ba zô ka (ống hút thuốc lào).
- Phố Hàng Chĩnh, được Người Pháp gọi là Rue des Vases (Phố Hàng Vại Chậu), nồi đất, chum vại, tiểu sành, gốm, sứ, thuỷ tinh ...
- Phố Hàng Đồng và phố Bát Sứ thời thuộc Pháp có tên chung là Rue des Tasses (phố Hàng Chén), bán đồ đồng như mâm, nồi, đỉnh, lư hương, lọ hoa, hạc thờ ...
TÀU ĐIỆN.
Không phải khi về thăm Hà Nội, tôi chỉ mang theo một đầu óc trống rỗng mà tự trang bị một mớ kiến thức, một lọn khái niệm từ những giờ Văn Học Sử ở Trung Học. Mà Môn Kim Văn được truyền giảng bởi những Vị Giáo Sư Bắc Kỳ 9 Nút như tôi. Quý Thầy không những truyền đạt lòng đam mê Văn Chương, mà lại còn truyền luôn cả Lòng Thương Tưởng Quê Hương Miền Bắc, lúc nào cũng bùng lên mãnh liệt trong tâm hồn. Vì thế nên, tuy tôi học Toán - Lý - Hoá (Ban B), nhưng lại giỏi Môn Văn (Ban C). Vì làm quen với Nàng bằng Sin, Cos, Tang, Cotang, Nàng không chịu mà "táng " lại thì nguy !
BÀI THƠ TÌNH TOÁN HỌC.
"Tình yêu Ta sẽ mãi là số một
Dẫu khai căn, mãi mãi chẳng thay lòng
Anh yêu em từ dương vô cực
Tình đôi mình lấp ló góc alpha
Anh yêu em đâu có như người ta
Ghét cực tiểu còn anh yêu cực đại.
Ghét cực tiểu còn anh yêu cực đại.
Thề yêu em yêu trọn đời yêu mãi
Chẳng thể nào phai nhạt đến bằng không
Anh yêu em hơn bác học Poat-sông
Yêu con số hơn cả thân mình nữa
Tình đôi ta chẳng thể nào tan vỡ
Như tiên đề tồn tại mãi em ơi
Tình đôi ta còn mãi đến muôn đời
Như định lý được chứng minh khảo nghiệm."
NGUYỄN THỊ SƯU TẦM.
Khi tôi về đến nhà, vẫn những điệp khúc:
- "Thế nào, con thưởng thức món ấy, có thấy ngon miệng không ?"
- "Thưa, không ạ. Chả giống với cách mô tả của Tản Đà ạ. Ông ấy nổi danh "chơi cho lịch mới là chơi". Dở tệ như vậy thì làm sao mà Ông ấy tán dương được ạ".
- "Con ơi, sao ngố thế hở con ? Ông ấy viết sách từ cái thời còn bọn thực dân Pháp cơ mà ! Bọn chúng cút xéo cả rồi, cuốn theo cả cái nết ăn. Còn bây giờ là thời quốc doanh, cha chung thì mấy ai khóc ?"
Quán Phở Hà Nội thật hoàn toàn khác biệt với Miền Nam. Tôi chỉ lấy quán phở bình dân ra so sánh. Nước lèo / nước dùng rất đậm đà nhờ được chiết xuất từ xương bò ninh nhừ. Các loại rau sống được bày ê hề trong rổ, có sẵn ở trên bàn, tôi có thể xin thêm tý giá trụng và tý hành trần. Để nêm thêm gia vị, thì có nước tương, nước mắm, tương ớt, tương đen, ớt tươi thái khoanh, chanh tươi cắt miếng, tỏi ngâm dấm và tiêu. Dù tôi có ăn thêm nhiều hoặc không ăn rau, giá tô phở 30 đồng vẫn là 30 đồng. Thế nhưng "Feu" (Phở) tại nơi sản sinh ra thì nước dùng lại lõng bõng, lạt hơn nước luộc ốc, tôi có thể tự biên tự diễn vì có sẵn mì chính (bột ngọt), tương đen, tương đỏ. Tuyệt nhiên không có lấy một cọng rau sống, nhất là món rau đi kèm để tăng thêm hương vị là ngò gai. Nếu tôi muốn có đầy đủ như ở trong Nam, tôi sẽ phải trả từ 40 đến 50 đồng ! Thưởng thức xong tô phở, tôi quen miệng xin ngụm nước trà nóng, thì:
- "Anh ạ, ra hàng nước chè ngay kia nhé. Muốn uống bao nhiêu ly cũng được cả. Còn nhâm nhi thanh kẹo lạc nữa cơ đấy".
Mang tiếng là "hàng" cho sang, chỉ là một cái bàn gỗ thấp lè tè, bên trên kê một bình tích trà ủ kín trong quả dừa khô, vài hộp nhưa đựng trà, kẹo lạc, vài gói thuốc lá Tam Đảo, Sông Cầu. Dưới đất là một lò than cùng với ấm. Và chắn chắn không thể thiếu.
"Ông kia đã bỏ thuốc Lào
Thấy Ba Số Tám, vội đào điếu lên."
Thấy Ba Số Tám, vội đào điếu lên."
HÚT THUỐC LÀO.
"Hút thuốc lào nâng cao sĩ diện
Thơm mồm bổ phổi, diệt trùng lao
Nâng điếu lên như Triệu Tử cầm đao
Nhả khói ra như Khổng Minh gọi gió.
Một thằng hút, bốn thằng say
Hai thằng châm đóm ngã lăn quay
Bà già vác củi loay hoay
Hít phải mùi thuốc lăn quay xuống đồi.
Ngọc Hoàng trông thấy hay hay
Vén mây nhìn xuống cũng say thuốc lào."
LÊ THỊ SƯU TẦM.
HỒ HOÀN KIẾM.
Tôi
đạp xe loanh quanh phố xá Hà Nội, từ những con phố "ngheo huyền" đến
khu phố Tây. Ra cả Cầu Long Biên và Cầu Thăng Long. Nhưng không kém màn
hít bụi, vì năm 1985, con đường lớn ngang qua Ga Hàng Cỏ đang được xây
dựng. Những Bài Văn Tế được phát ra từ những gia chủ - nhà dài hơn 10m,
chỉ còn lại 2m - nghe rất du dương và êm tai, nhưng tôi không dám nghe
lâu vì sợ bị dzăng miểng.
NGUỒN TRÍCH DẪN thuyennhan.info
11/06/2012.
THOMAS THANH NGUYENTU.
No comments:
Post a Comment