Tuesday, August 14, 2012

THƠ 14: ĐÀ LẠT - HOÀI NIỆM.




NÚP BÓNG QUÂN VƯƠNG.
DỰA HƠI HOÀNG HẬU.


1/ Đà Lạt vào thuở ấu thơ
Chưa biết mộng mơ, chỉ vâng lời Bố
Mình, một mình, đi trọ học
Petit Lycée, năm đầu Tiểu Học
Luôn xa nhà, cách người thân
Chỉ hội ngộ khi tiếng Ve gọi Hè
Khu Ký Túc, Láng Giềng Gần
Nhưng sao nỗi nhớ lại hành quắt quay ?
Nhớ Cha, nhớ Mẹ, nhớ em
Nhớ luôn góc bếp, nhớ giường nệm êm
Mỗi lần nỗi nhớ dâng đầy
Nhìn đâu cũng thấy, tưởng người nơi xa
Đôi - ba năm, nhớ nguôi dần
Bắt đầu khám phá từ gần đến xa
Sương trôi quyện gốc thông già
Có con sóc nhỏ thả mình tung tăng
Mưa rơi tí tách càng nhanh
Mây bay bãng lãng, qua Thời Hoa Niên.



SAU DINH QUÂN VƯƠNG.


2/ Khi Cơ Trời đổi thay Vận Nước
Khắp Giang Sơn chỉ một Màu Cờ
Là Kẻ Thua - Buộc vâng lời
"Tiến vào rừng sâu, làm giàu Tổ Quốc
Hãy làm đúng những gì Học Tập
Muốn Vinh Quang, Lao động chân tay
Thân phận cũ được đổi thay
Mới xứng đáng THANH NIÊN THẾ HỆ MỚI !"

Đất dung thân, Lộc An - Bảo Lộc
Chắc trong tay một cây xà bát
Như Thường Sơn Triệu Tử Long
Múa một đường, cỏ - lác - tranh văng tuốt.
Quanh gốc Trà, sạch boong, trơ trụi
Còn thân Trà gật gù khen tặng,
Nếu Trà để "tóc" rối bù
Vung ngay dao quắm, tán tròn gọn bâng
Còn cỏ dại chen nhau xếp lớp
Mọc lung tung tràn lấp lối đi
Trên tay, dao phát tung bay
Chúng liền ngã rạp, đợi ngày héo khô.
Kích thích Trà đâm chồi nẩy lộc
Bung đọt non trong nắng đong đưa
Từng hạt phân toé như mưa
Nâu - trắng - đen - vàng, rài đều quanh gốc.
Để phòng bệnh diệt trừ sâu hại
Bình đeo lưng, bắn súng phun sương
Hạt bụi nhỏ rủ nhau vương
Từng phiến lá ánh đều trong nắng sớm.
Rồi Vũ Khúc Hái Trà trổi nhịp
Từng Nàng Tiên múa Điệu Nghê Thường
Gùi trên lưng, quấn quanh hông
Vuông nhựa mỏng để đề phòng con vắt nhỏ
Đôi bàn tay ngắt đều, thoăn thoắt
Búp Trà non trên tán vơi dần
Hất ra sau, Trà dâng mau
Gùi lần đầy nặng, Trạm Cân thu hồi.

BÚP TRÀ NON.

Mùa mưa đến, mùa của tăng gia
Ta cùng nhau rẫy cỏ lưng đồi
Tạo nương trồng lúa, lên vồng,
Ngô, khoai cắm xuống, củ mì thả hom.
Muốn cải thiện, có "con" trong bữa
Anh cùng tôi vác muối lên non
Đôi khi đi cả ngày đường
Ngoại giao trao đổi, gà heo mang về.
Cũng có lúc Ông Trời đi vắng
Để mặc Ta đắm đuối ngắm nhìn
Nàng Tiên diện bộ Ê Và
Mải lượn lờ, cùng nô đùa, tắm suối.
        Nhưng, thê lương chẳng chút tình thương
                             Rất thê thiết, quên đi tình tiết
                              Thật thê thảm, hết cảm thông
       Làm hùng hục nhưng chẳng ra lương tiền.
                           Áo dài tay, tôm khô, mắm ruốc
                    Quần soọc thun ... xuất khẩu trả về
                            Bao mặt hàng, nước ngoài chê
                     Công Nhân lãnh đủ, vì quy ra tiền.
                         Nước Việt Nam sản sinh lúa gạo
                               Ấy thế mà, được nhận bo bo,
                                   Mì cọng bự, lát khoai khô,
                           Củ mì kẻ chỉ, độn cơm cho đầy.
                       Tôi phải ráng cho qua năm tháng
                      Hết Hợp Đồng, liền vội dông ngay
                                  Ba năm rồi cũng đến ngày
                 Trở về chốn cũ, kiếm nghề sinh nhai.
 CHIẾC GÙI.

Bảo Lộc - Đà Lạt chẳng xa nhau
Ba năm chỉ về thăm năm lần
Cành vật cũ thoáng hoang sơ
Nhà nhà chuyển đổi vật nuôi, cây trồng
Mảnh vườn xưa, trước được trồng hoa
Bây giờ thu hẹp, để lên dàn bầu
"Dân khổ cực, lấy tiền đâu mua gạo
Chẳng dư thừa, sao nghĩ đến hoa ?"
Tôi cũng ghé về thăm Trường cũ
Giờ đã thay tên, đổi chủ
"Lối xưa xe ngựa, hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài, bóng tịch dương."


TRÀ ĐƯỢC TRỒNG THOAI THOẢI THEO TRIỀN DỐC.

- Lưỡi cuốc có hình chữ nhật, được ráp vào cán dài theo chiều thẳng đứng. Lưỡi xà bát cũng vậy, nhưng được ráp vào cán dài theo chiều ngang & có thêm một ngạnh nhỏ (phía cán).
- Dao quắm, lưỡi hơi dầy, cong, cán ngắn.
- Dao phát, lưỡi mỏng, mũi cong, cán dài. Ở Miền Nam, lưỡi phảng không có mũi cong.

ĐỒN ĐIỀN TRÀ BẢO LỘC.
THU HOẠCH TRÀ.
"RỦ NHAU LÊN NÚI HÁI TRÀ, GẶP THẰNG PHẢI GIÓ ..."
CHẾ BIẾN TRÀ. 
  
14/08/2011.
THOMAS THANH NGUYENTU.

No comments:

Post a Comment